Showing posts with label ChinhTri-QuanSu-TrungQuoc. Show all posts
Showing posts with label ChinhTri-QuanSu-TrungQuoc. Show all posts

Thursday, December 26, 2013

Những điểm yếu cốt tử của tàu sân bay Trung Quốc



Thứ năm, 2013-12-26 14:35:12 - Nguồn: PetroTimes.vn
Việc trang bị tàu sân bay cho lực lượng Hải quân là một xu hướng tất yếu song không phải quốc gia nào cũng có đủ trình độ và tiềm lực kinh tế để theo đuổi ước mơ đó.

Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc
Mặc dù Trung Quốc có nhiều hạn chế trong lĩnh vực kỹ thuật, song với việc đưa vào biên chế tàu sân bay Liêu Ninh là một nỗ lực vượt bậc của Bắc Kinh trong việc chứng minh khả năng quân sự cũng như tham vọng của mình. Tuy nhiên, thực tế tàu sân bay Liêu Ninh có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu thực chiến hay không thì vẫn là một dấu hỏi lớn.
Các chuyên gia quân sự cho rằng, mặc dù được đưa vào biên chế chính thức cho Hải quân, song tàu sân bay Liêu Ninh chỉ có giá trị "tinh thần"- tức là cổ vũ, đánh bóng hình ảnh của Hải quân Trung Quốc, còn trên thực tế nó không có giá trị cũng như khả năng tác chiến thực sự.
Các ý kiến nhận định, hiện Trung Quốc gặp rất nhiều vấn đề đối với tàu sân bay Liêu Ninh. Trong đó có thể kể đến sáu điểm yếu cốt tử sau.
Thứ nhất, tàu Liêu Ninh phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ đóng tàu của Nga.
Đây là bản một chiếc tàu cũ của Liên Xô trước đây. Tiền thân của tàu Liêu Ninh chính là tàu sân bay đa dụng Riga lớp Đô đốc Kuznetsov được biên chế cho hải quân Liên Xô vào năm 1988, và sau đó được đổi tên thành Varyag vào năm 1990.
Năm 1998 Trung Quốc đã mua lại rồi kéo về cảng Đại Liên. Chính những công nghệ vốn đã rất cũ kỹ và lạc hậu từ những năm 1990 này đã hạn chế rất nhiều đến phạm vi hoạt động cũng như tính hữu dụng của tàu sân bay Liêu Ninh.
Mặc dù đã được Trung Quốc "phù phép" biến nó thành một tàu sân bay với lớp vỏ ngoài hào nhoáng nhưng theo đánh giá của giới chuyên gia các công nghệ cũng như trang thiết bị bên trong không thể đáp ứng nếu như thực chiến xảy ra. Bên cạnh đó còn chưa kể đến khả năng đồng bộ các thiết bị tương đối kém cỏi do Trung Quốc đã lắp ghép nhiều mảng kỹ thuật trên con tàu này.
Thứ hai, nếu như công nghệ hiện nay trang bị trên tàu sân bay la động cơ hạt nhân thì tàu sân bay của Trung Quốc lại chạy bằng động cơ diesel.
Với động cơ này, tàu sân bay của Trung Quốc không thể đạt tốc độ tối đa theo yêu cầu cũng như khả năng cơ động tác chiến linh hoạt. Bên cạnh đó, việc chỉ trang bị động cơ điêzen còn khiến tàu Liêu Ninh không đạt được vận tốc cần thiết để giúp các máy bay chiến đấu lợi dụng sức gío để cất cánh.
Thứ ba, các hệ thống điện tử và vũ khí trên tàu sân bay Liêu Ninh còn kém xa so với trang bị của tàu sân bay Mỹ.
Chiến đấu cơ J-15, “đòn chủ lực” của tàu sân bay Liêu Ninh vẫn chưa thể so sánh được với những chiếc chiến đấu cơ tàng hình FA-18 E/F Super Hornet của Mỹ. Chiến đấu cơ J-15 của Trung Quốc được cho là một bản sao của máy bay hạng nặng Su-33 Falcon-D của Nga, tuy nhiên, chiếc “Cá mập bay” J-15 này đã bị các chuyên gia hàng không chê “tơi bời” vì những hạn chế của nó, đặc biệt là hệ thống động cơ không thể nào so sánh được với nguyên mẫu Su-33.
Ngoài ra, chiến đấu cơ J-15 cũng mới chỉ luyện tập cất hạ cánh từ tàu sân bay Liêu Ninh trong một thời gian ngắn, và trình độ tác chiến cũng như khả năng phối hợp giữa các chiến đấu cơ này với tàu sân bay Liêu Ninh vẫn còn là một câu hỏi lớn.
Thứ tư đó là khả năng trinh sát, cảnh báo sớm từ xa vô cùng yếu kém.
Hiện tại tàu sân bay Liêu Ninh được trang bị máy bay trực thăng trinh sát Kamov KA-31 do Nga chế tạo. Mặc dù được trang bị một số công nghệ và tính năng tiên tiến, song “Cá hổ kình” KA-31 không thể nào đọ được với máy bay cảnh báo sớm E-2 Hawkeye của tàu sân bay Mỹ so về trần bay và phạm vi hoạt động. KA-31 chỉ có tốc độ bay tối đa 250 km/h và tầm hoạt động 600 km, trong khi E-2 Hawkeye của hải quân Mỹ có tầm hoạt động 2.700 km với tốc độ bay tối đa 650 km/h.
Ngoài ra máy bay cảnh báo sớm của Mỹ có thể phát hiện máy bay địch từ khoảng cách 400-650 km và giám sát đồng thời 40 mục tiêu cùng một lúc.
Thứ năm đó là lực lượng hộ tống. Nếu như một cụm tàu sân bay của Mỹ thường được biên chế 2-3 tàu khu trục tên lửa, 3 tàu hộ vệ tên lửa, 2-3 tàu ngầm hạt nhân, 1-2 máy bay trinh sát P3C...hộ tống trong quá trình tác chiến thì tàu sân bay của Trung Quốc vẫn đang loay hoay chỉ biên chế 2 tàu hộ vệ tên lửa đi cùng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho lực lượng chống hạm đối phương nếu như tác chiến xảy ra.
Thứ sáu, hệ thống cất-hạ cánh trên tàu sân bay của Trung Quốc sử dụng hệ thống dốc tạo đà.
Đây là kỹ thuật chỉ áp dụng đối với các máy bay chiến đấy có trọng tải nhỏ, vận tốc lớn. Một khi các máy bay của Trung Quốc trang bị đầy đủ nhiên liệu, vũ khí, tên lửa quá tải trọng sẽ dẫn tới tình trạng mất cân bằng có thể dẫn tới va chạm, mất an toàn đối với phi công.
Ngoài ra, kỹ thuật tăng tốc khi hạ cánh trên tàu sân bay có đường băng dốc cũng phức tạp và khó khăn hơn. Do đó, với trình độ phi công hiện tại, Trung Quốc khó có thể thực hiện trong thời gian ngắn trước mắt.
Với những điểm yếu “chết người” trên, các chuyên gia nhận định tàu sân bay Liêu Ninh vẫn còn cả một chặng đường dài phía trước để có thể tự hoàn thiện mình, và với khả năng phối hợp tác chiến như hiện nay, nếu tham gia chiến đấu, tàu Liêu Ninh chẳng khác nào đâm đầu vào chỗ chết.
Lam Ngọc (tổng hợp)

Saturday, December 21, 2013

Tàu sân bay Liêu Ninh đến Biển Đông làm "con mồi" cho tàu Mỹ

(GDVN) - Biên đội tàu sân bay Liêu Ninh tiến hành thử nghiệm ở Biển Động tạo cơ hội cực tốt cho Mỹ tiến hành do thám và "đụng độ" đã xảy ra.
Tàu sân bay Liêu Ninh, Hải quân Trung Quốc xuống Biển Đông
Tờ "Hoàn Cầu" Trung Quốc ngày 14 tháng 12 đưa tin, từ trước tới nay, quân Mỹ lấy tự do hàng hải ở vùng biển quốc tế làm lý do, tại "cửa nhà" Trung Quốc đến gần do thám, tiến hành theo dõi các hoạt động quân sự của Trung Quốc.
Bài báo dẫn “báo chí nước ngoài” gần đây khi nói về đối đầu tàu chiến Trung-Mỹ trên Biển Đông đã cho biết, vào ngày 5 tháng 12, khi tiến hành theo dõi tàu sân bay Liêu Ninh của Hải quân Trung Quốc trên Biển Đông, tàu tuần dương tên lửa Cowpens lớp Ticonderoga Hải quân Mỹ đã "đụng độ" phải 1 tàu chiến đổ bộ của Trung Quốc, tàu Mỹ đã cơ động khẩn cấp để tránh va chạm giữa hai tàu. Theo bài báo, Chính phủ Mỹ đã thông qua kênh ngoại giao và quân sự để tiến hành phản đối Trung Quốc.
Hãng tin Reuters dẫn Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ cho biết, tàu tuần dương tên lửa Cowpens ngày 5 tháng 12 đã gặp 1 tàu chiến Trung Quốc trên vùng biển quốc tế ở Biển Đông, tàu Mỹ đã thực hiện các động tác tránh né để tránh xung đột.

Trong khi đó, hãng tin AFP cũng dẫn lời một quan chức Bộ Quốc phòng Mỹ giấu tên cho biết, một chiếc "tàu mẹ đổ bộ" đã xuất hiện, hai tàu cách nhau chưa đến 500 m, hai tàu đã tiến hành liên lạc có hiệu quả, tàu Mỹ khi đó đang ở gần tàu sân bay Liêu Ninh.
Theo phóng viên Buell Goetz của trang mạng freebeacon.com, Mỹ, có quan chức quốc phòng Mỹ cho biết, gần đây, ở vùng biển quốc tế, tàu chiến Hải quân Trung Quốc tìm cách ép một chiếc tàu tuần dương tên lửa Mỹ dừng lại, hành động này gây ra một sự kiện đối đầu giằng cơ quân sự căng thẳng.
Tàu đổ bộ xe tăng Type 072 Hải quân Trung Quốc (ảnh do dân mạng Trung Quốc tuyên truyền)
Báo Mỹ cho rằng, gần đây, tàu tuần dương tên lửa USS Cowpens quân Mỹ tham gia cứu nạn ở Philippines đã gặp phải tàu chiến Trung Quốc ở khu vực kề sát tàu sân bay Liêu Ninh trên Biển Đông, tàu Mỹ phải áp dụng động tác cơ động để tránh va chạm.

Sự kiện này đã lộ rõ tính cần thiết phải tăng cường công nghệ hàng hải chuyên nghiệp tiêu chuẩn cao nhất, trong đó có liên lạc giữa các tàu chiến, từ đó hạ thấp tai nạn không cố ý hoặc rủi ro xảy ra tai hoạ. Quan chức Bộ Ngoại giao cho biết, Chính phủ Mỹ thông qua các kênh ngoại giao và quân sự để phản đối với Trung Quốc.
Báo Mỹ tiết lộ, trong sự kiên lần này, tàu tuần dương USS Cowpens đang tiến hành theo dõi đối với tàu Liêu Ninh, tàu sân bay này gần đây đã từ cảng Thanh Đảo, vùng biển phía bắc Trung Quốc, lần đầu tiên đi theo đội hình biên đội xuống Biển Đông. Các tàu chiến hộ tống cho tàu sân bay Liêu Ninh lần lượt là 2 tàu khu trục Type 051C Thẩm Dương và Thạch Gia Trang; 2 tàu hộ vệ 054A Yên Đài và Duy Phường.
Theo quan chức Mỹ, sự kiện này bắt đầu từ việc tàu chiến Trung Quốc phát ra tín hiệu cảnh báo và ra lệnh cho tàu USS Cowpens dừng lại, tàu Mỹ từ chối mệnh lệnh, tiếp tục hoạt động, bởi vì nó hoạt động ở vùng biển quốc tế.

Sau đó, một chiếc tàu đổ bộ Trung Quốc đã chạy đến trước tàu USS Cowpens và dừng lại, ép tàu Mỹ bất ngờ chuyển hướng, quan chức Mỹ gọi điều này là "một lần cơ động nguy hiểm". Theo quan chức này, sự kiện lần này diễn ra cách đây 1 tuần và tàu Mỹ được hưởng quyền "tự do hàng hải".
Tàu tuần dương tên lửa USS Cowpens, Hải quân Mỹ
Theo báo Trung Quốc, từ lâu, quân Mỹ lấy tự do hàng hải ở vùng biển quốc tế làm lý do, đến các “vùng biển xung quanh Trung Quốc” để trinh sát/theo dõi, trong đó có theo dõi các hoạt động quân sự "bình thường" của Trung Quốc.
Báo Trung Quốc còn cho biết, những năm gần đây, tàu chiến, máy bay Trung-Mỹ đã nhiều lần xảy ra sự kiện đối đầu trên Biển Đông, nổi tiếng như sự kiện va chạm máy bay trên Biển Đông vào năm 2001, sự kiện tàu USNS Impeccable vào tháng 3 năm 2009, sự kiện đụng độ của tàu khu trục USS John S. McCain (DDG-56) tháng 6 năm 2009.
Trong sự kiện va chạm máy bay trên Biển Đông năm 2001, máy bay do thám EP-3C đang tiến hành nhiệm vụ nghe lén thông tin quân sự của Quân đội Trung Quốc trên đảo Hải Nam, đã đâm cháy máy bay J-8 Trung Quốc; trong sự  kiện tàu USNS Impeccable tháng 3 năm 2009, tàu khảo sát đại dương USNS Impeccable cũng được cho là đang tìm cách thu thập thông tin tiếng ồn của tàu ngầm Trung Quốc và tiến hành khảo sát tình hình thuỷ văn Biển Đông; trong sự kiện đụng độ tàu khu trục USS John S. McCain, thiết bị định vị thủy âm của tàu khu trục này đã trực tiếp va chạm với tàu ngầm Trung Quốc. Đằng sau mỗi sự kiện đều liên quan chặt chẽ đến mối quan tâm rất lớn của Hải quân Mỹ đối với sự phát triển về sức mạnh quân sự của Trung Quốc.
Biên đội tàu sân bay Liêu Ninh (ảnh do dân mạng Trung Quốc tuyên truyền)
Theo bài báo, chính quyền Trung Quốc vừa đưa ra cái gọi là "lệnh cấm" trên một vùng biển rộng lớn ở Biển Đông, được suy đoán là Hải quân Trung Quốc đang tiến hành thử nghiệm mới đối với tàu sân bay Liêu Ninh hiện đang triển khai ở căn cứ Tam Á.
Trước đây, tàu sân bay Liêu Ninh tiến hành thử nghiệm ở vùng biển Bột Hải và Hoàng Hải, được Hải, Không quân Trung Quốc bảo vệ khá chặt chẽ, tàu chiến Mỹ không tiện tiến đến gần theo dõi, do thám. Lần này, hoạt động thử nghiệm lựa chọn vùng biển rộng lớn và cách đất liền khá xa trên Biển Đông, đây chính là cơ hội cực tốt để Hải quân Mỹ tiến hành do thám tàu Liêu Ninh ở cự ly gần, sự đối đầu kiểu này cũng đã nằm trong dự kiến.
Tư liệu:
Tàu tuần dương lớp Ticonderoga:
Tàu tuần dương lớp Ticonderoga là loại tàu chiến chủ lực đầu tiên chính thức sử dụng Aegis của Hải quân Mỹ, trang bị hệ thống tác chiến mặt nước kiểu tích hợp, trung tâm là radar mảng pha AN/SPY-1. Đây cũng là tàu tuần dương “lớp 1” duy nhất hiện có của Hải quân Mỹ, cũng là tàu tuần dương “lớp 1” duy nhất hiện có của hải quan các nước trên thế giới.
Tàu tuần dương lớp Ticonderoga, Hải quân Mỹ
Về biên chế tác chiến của Hải quân Mỹ, tàu lớp này là trung tâm chỉ huy chính của cụm chiến đấu tấn công đổ bộ và cụm chiến đấu tàu sân bay (CVBG), đồng thời bảo vệ cho tàu sân bay.

Là lực lượng bảo vệ hàng đầu của cụm chiến đấu tàu sân bay, tàu lớp Ticonderoga trang bị  hệ thống Aegis đem lại sức chiến đấu phòng không rất tốt, làm cho cụm chiến đấu tàu sân bay có đầy đủ sức mạnh chống lại các cuộc tấn công tên lửa của Liên Xô cũ từ các lực lượng trên mặt nước, trên không, dưới mặt nước. Ngoài ra, hệ thống Aegis cũng có khả năng săn ngầm rất tốt.
Tàu sân bay Liêu Ninh:
- Kích cỡ chính: dài 304 m, rộng 70,5 m, mớn nước 11 m.
- Đường băng: dài 300 m, rộng 70 m.
- Lượng giãn nước đầy: 55.000 tấn (tiêu chuẩn), 67.500 tấn (đầy).
- Khả năng chạy liên tục trên 7.000 hải lý với tốc độ 18 hải lý/giờ.
- Vũ khí trang bị: Máy bay chiến đấu J-15.
- Cải tạo kết cấu: Bỏ đi ống phóng tên lửa chống hạm 12 ống ở đầu tàu, xây dựng kho chứa máy bay lớn hơn.
Tàu khu trục Thạch Gia Trang Type 051C, Hạm đội Bắc Hải, Hải quân Trung Quốc
Tàu khu trục Thẩm Dương và Thạch Gia Trang:
- Type 051C (được gọi là tàu Aegis Trung Hoa).
- Thuộc tính: Tàu khu trục phòng không.
- Lượng giãn nước: 6.500 tấn (tiêu chuẩn), 7.100 tấn (đầy).
- Vũ khí trang bị: Hệ thống tên lửa phòng không Rif-M (SA-N-20, phiên bản xuất khẩu của S-300FM); thiết bị phóng tên lửa chống hạm YJ-83.
Tàu hộ vệ tên lửa Yên Đài và Duy Phường:
- Type 054A (NATO gọi là lớp Giang Khải II).
- Thuộc tính: tàu hộ vệ đa năng.
- Lượng giãn nước: 3.900 (tiêu chuẩn), 4.400 tấn (đầy).
- Vũ khí trang bị: tên lửa chống hạm YJ-83; lửa phòng không HQ-16 phóng thẳng đứng; 1 máy bay trực thăng săn ngầm Z-9C.
Tàu hộ vệ Yên Đài, số hiệu 538, Type 054A của Hạm đội Bắc Hải, Hải quân Trung Quốc.

Wednesday, December 18, 2013

Tàu vũ trụ Trung Quốc hạ cánh thành công xuống mặt trăng

(Dân trí) - Tàu vũ trụ của Trung Quốc ngày 14/12 đã thực hiện thành công cú hạ cánh mềm xuống mặt trăng lần đầu tiên kể từ năm 1976, trở thành quốc gia thứ 3 trên thế giới sau Mỹ và Liên Xô cũ làm điều được điều này, đánh dấu bước tiến lớn trong chương trình vũ trụ đầy tham vọng.



Xe tự hành Thỏ Ngọc di chuyển trên bề mặt mặt trăng.
Hãn tin Xinhua của Trung Quốc đưa tin, tàu Hàng Nga-3 bắt đầu hạ thấp xuống mặt trăng lúc 9 giờ tối ngày 14/12 giờ Bắc Kinh và đáp xuống một khu vực có tên gọi là Vịnh Cầu Vồng 11 phút sau đó, lúc 9h11.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã đồng loạt vỗ tay khi Hằng Nga-3 được nhìn thấy hạ cánh thành công xuống bề mặt mặt trăng thông qua các màn hình lớn tại trung tâm kiểm soát ở Bắc Kinh.
"Hằng Nga-3 đã tiến hành thành công cú hạ cánh nhẹ nhàng xuống mặt trăng. Điều này giúp Trung Quốc trở thành quốc gia thứ 3 trên thế làm được điều đó", Viện khoa học Trung Quốc (CAS) viết trên trang chính thức của viện này trên mạng xã hội Sina Weibo.

Các nhà khoa học Trung Quốc vỗ tay khi Hằng Nga-2 đáp xuống mặt trăng thành công.
Vài giờ sau khi Hằng Nga-3 hạ cánh xuống mặt trăng, xe tự hành 6 bánh Yutu (Thỏ Ngọc) đã tách khỏi tàu đổ bộ vào sáng sớm nay giờ Bắc Kinh.
Theo Xinhua, Thỏ Ngọc đã xuống bề mặt mặt trăng lúc 4h35 phút sáng ngày 15/12 và di chuyển trên đó, để lại một vết sâu trên bề mặt "chị Hằng". Quá trình này đã được ghi lại bằng camera trên tàu đổ bộ và các hình ảnh được gửi về trái đất.
Sau khi tách nhau ra, Thỏ Ngọc và Hằng Nga-3 sẽ chụp ảnh về nhau và bắt đầu các hoạt động nghiên cứu khoa học của riêng mình.
Cú hạ cánh của Hằng Nga-3 diễn ra 12 ngày sau khi nó được phóng lên và là cú hạ cánh đầu tiên kiểu này kể từ sứ mệnh của Liên Xô cũ gần 4 thập niên trước.

Thỏ Ngọc đã tách khỏi Hằng Nga-3.
Hằng Nga-3 sẽ hoạt động trên mặt trăng khoảng 1 năm, trong khi Thỏ Ngọc dự kiến sẽ hoạt động trong 3 tháng.
Thỏ Ngọc mang theo các thiết bị tinh vi, trong đó ra-đa thâm nhập mặt đất để tiến hành các phép đo đối với bề mặt và đất mặt trăng.
Thỏ Ngọc, nặng 120 kg, được cho là có khả năng leo lên các đường dốc 30 độ và có thể di chuyển với vận tốc 200 m/giờ.
Hằng Nga-3 và Thỏ Ngọc được cung cấp năng lượng bởi các tấm pin mặt trời, nhưng một số nguồn tin cho biết chúng cũng mang pin plutonium-238 để giữ nhiệt trong thời tiết đêm lạnh giá trên mặt trăng.

Ảnh bề mặt mặt trăng tàu Hằng Nga-3 chụp được.
Theo một số chuyên gia vũ trụ Trung Quốc, sứ mệnh nhằm thử nghiệm các công nghệ mới, thu thập dữ liệu và nâng cao chuyên môn khoa học. Nó cũng khảo sát các nguồn khoáng chất giá trị có thể được khai thác một ngày nào đó.
Cú hạ cánh xuống bán cầu bắc của mặt trăng đánh dấu bước tiến mới nhất trong chương trình vũ trụ đầy tham vọng của Trung Quốc.
Sau sứ mệnh này, một sứ mệnh nhằm đưa các mẫu đất mặt trăng về trái đất dự kiễn diễn ra năm 2017. Điều này có thể mở đường cho các sứ mệnh robot tiếp theo, và có thể là một sứ mệnh mặt trăng vào những năm 2020.

Ba tên lửa đạn đạo TQ “chọc thủng” Mỹ

(Kienthuc.net.vn) - DF-5, DF-31 và DF-41 là những loại tên lửa đạn đạo của Trung Quốc có khả năng tấn công các mục tiêu trên lãnh thổ Mỹ.
Theo tờ Nezavisimaya Gazata (trụ sở tại Moscow, Nga), lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc có khả năng sở hữu 70 tên lửa đạn đạo liên lục địa có khả năng tấn công nước Mỹ.

Vậy đó là những loại tên lửa nào?

Đông Phong 5 (DF-5)

Tên lửa đạn đạo liên lục địa Đông Phong 5 (DF-5) do Viện Công nghệ phóng Trung Quốc (CALT) thiết kế từ những năm 1970. Theo một số nguồn tin, DF-5 được bắn thử lần đầu vào tháng 9/1971 đạt tầm bắn lên tới 10.000-12.000km.

DF-5 được chính thức triển khai vào năm 1981 trong biên chế Quân đoàn Pháo binh số 2. Có thể nói, thời điểm đó, DF-5 được coi là loại tên lửa đạn đạo mạnh nhất của Trung Quốc đủ sức vươn tới mọi mục tiêu ở châu Âu và Mỹ. 

Tên lửa đạn đạo DF-5 dài 32,6m, đường kính thân 3,35m, trọng lượng phóng 183 tấn. Với kích thước này, DF-5 cũng được xem là tên lửa đạn đạo lớn nhất của Trung Quốc từ trước tới nay.
Tên lửa đạn đạo liên lục địa DF-5 trong giếng phóng.

Tên lửa được cấu kết với 2 tầng động cơ dùng nhiên liệu lỏng cho phép đạt tầm bắn 12.000km. Nó có khả năng mang phần chiến đấu nặng 3 tấn (gồm có đầu đạn).

DF-31 được trang bị hệ thống dẫn đường quán tính nên độ chính xác không cao, bán kính lệch mục tiêu khoảng 1.000m. Tuy nhiên, với đầu đạn hạt nhân thì khoảng cách này không là vấn đề.

Biến thể cải tiến DF-5A được phát triển từ năm 1983 cho phép tăng tầm bắn lên tới 15.000km và mang phần chiến đấu nặng 3,2 tấn. Cùng với đó là khả năng đạt độ chính xác cao hơn rất nhiều.
Tên lửa đạn đạo DF-5 bắn thử nghiệm.

Về phương thức triển khai DF-5/5A, ên lửa được đặt nằm ngang trong đường hầm ở núi. Khi triển khai, tên lửa được đưa ra ngoài và nạp nhiên liệu (mất chừng 30-60 phút), rồi dựng thẳng đứng trên bệ phóng cố định. Tuy nhiên, trong tác chiến hiện đại thì phương án bắn này sẽ dễ bị vệ tinh trinh sát đối phương phát hiện và nhanh chóng vô hiệu hóa.

Theo cơ quan tình báo quốc phòng Mỹ, giai đoạn 1999-2008, lực lượng tên lửa DF-5/5A khoảng 20 quả.

Đông Phong 31/31A (DF-31/31A)

Đông Phong 31 (DF-31) là loại tên lửa đạn đạo liên lục địa do Viện Công nghệ động cơ rocket Trung Quốc (ARMT) nghiên cứu phát triển từ những năm 1980 để thay thế cho loại DF-4.

Ngày 2/8/1999, mẫu thử DF-31 lắp đầu đạn giả đã bắn thử nghiệm thành công từ trường bắn Ngũ Trại (tỉnh Sơn Tây). Hai cuộc thử khác được thực hiện từ cuối năm 2000 nhưng theo một số nguồn tin thì không thành công. Mặc dù các cuộc bắn thử không có kết quả rõ ràng thì chính quyền Trung Quốc vẫn “vội vã” lộ diện tên lửa đạn đạo mới trong cuộc duyệt binh 1999.
Tên lửa đạn đạo DF-31 trong duyệt binh của Quân đội Trung Quốc.

Tên lửa đạn đạo DF-31 có chiều dài 13m, đường kính thân 2,25m, trọng lượng phóng 42 tấn. DF-31 lắp đầu đạn hạt nhân công suất 1.000 kiloton hoặc dùng phần chiến đấu MIRV (chứa nhiều đầu đạn hạt nhân con bên trong).

DF-31 có khả năng đạt tầm bắn từ 7.200-8.000km, có thể phóng đi từ xe mang ống phóng tự hành 16 bánh hoặc các giếng phóng trên mặt đất.

Dù tên lửa đã đạt một số yêu cầu khi thiết kế của các nhà khoa học Trung Quốc là khắc phục những điểm yếu của DF-4 (tính cơ động, bảo quản nhiên liệu phóng). Nhưng, họ vẫn không hài lòng khi tầm bắn của DF-31 mới chỉ vươn tới được bờ Tây nước Mỹ. Vì lẽ đó, Trung Quốc nhanh chóng bắt tay vào phát triển biến thể cải tiến DF-31A.

Tầng động cơ thứ 3 tên lửa DF-31A được nối dài thêm qua đó tăng chiều dài tổng thể lên 18,4m, trọng lượng phóng 63 tấn. DF-31A có khả năng đạt tầm bắn từ 11.200-12.000km đảm bảo vươn tới mọi mục tiêu trên đất Mỹ.

DF-31A được tích hợp nhiều công nghệ tiên tiến tương đương tên lửa đạn đạo Nga. Tên lửa có khả năng cơ động cao, lắp đặt thêm các mồi bẫy và pháo sáng để đối phó với vũ khí đánh chặn.
DF-31 trong trạng thái sẵn sàng bắn.

Ngày 4/9/2006, tên lửa đạn đạo cải tiến DF-31A bắn thử nghiệm thành công nhưng không rõ sau đó Trung Quốc có thực hiện thêm bất kỳ lần bắn thử kiểm tra nào không.

Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ, năm 2010 Trung Quốc triển khai khoảng 30 tên lửa đạn đạo DF-31/DF-31A. Toàn bộ được biên chế trong các đơn vị thuộc Quân đoàn Pháo binh số 2.

Đông Phong 41 (DF-41)

Do tên lửa DF-5 tồn tại khá nhiều khuyết điểm trong quá trình phóng, vì thế từ năm 1986, Trung Quốc bắt tay ngay vào phát triển tên lửa đạn đạo liên lục địa Đông Phong 41 (DF-41).

Theo nguồn tin từ trang mạng Trung Quốc, DF-41 nặng 42 tấn, dài 15m, đường kính thân 2,25m. Tên lửa được kết cấu với 3 tầng động cơ nhiên liệu rắn cho phép đạt tầm bắn tới 14.000-15.000km, tốc độ hành trình Mach 25. Với thông số này, DF-41 thừa sức tấn công mọi mục tiêu trên lãnh thổ Mỹ.
Chiếc xe phóng được cho là của tên lửa đạn đạo DF-41.

DF-41 trang bị phần chiếu đấu kiểu MIRV (chứa 10 đầu đạn hạt nhân dẫn hướng độc lập). Nó dùng công nghệ dẫn đường quán tính kết hợp hệ thống định vị toàn cầu (GPS hoặc Bắc Đẩu) cho phép cung cấp độ chính xác cao, bán kính lệch mục tiêu khoảng 100-500m.

Về phương thức phóng, tên lửa được đặt trên bệ phóng di động hoặc được đặt trong các giếng phóng ở mặt đất.

Dù vậy, tất cả thông tin trên chủ yếu là từ nguồn tin rò rỉ, hiện tại người ta không thể biết chính xác DF-41 đã chính thức đưa vào hoạt động. Gần đây, các nguồn tin quốc tế cho hay, Trung Quốc thực hiện cuộc phóng DF-41 đầu tiên vào ngày 24/7/2012.

Nhưng lại có những nguồn tin cho rằng, DF-41 đã chính thức chuyển giao cho Quân đoàn Pháo binh số 2 vào năm 2010.

TIN LIÊN QUAN:

Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu!

Trung Quốc đang xây dựng cho mình một lực lượng không quân chiến lược, vừa khắc phục sự lạc hậu, vừa có khả năng tác chiến toàn thế giới.

Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Tờ “Hoàn Cầu“ Trung Quốc ngày 16/12/2013 có bài viết cho biết, gần đây, chiếc nguyên mẫu thứ hai của máy bay vận tải quân dụng cỡ lớn thế hệ mới Y-20 do Trung Quốc tự nghiên cứu phát triển đã bay thử lần đầu tiên thành công ở một trung tâm bay thử ở miền tây Trung Quốc, cách lần bay thử đầu tiên của máy bay vận tải Y-20 đầu tiên chưa đến 1 năm.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Điều này cho thấy, các công nghệ quan trọng của máy bay vận tải cỡ lớn Y-20 đã ngày càng hoàn thiện, và cho thấy công tác nghiên cứu chế tạo nó rất thuận lợi. Hiện nay, chỉ có 1 máy bay nguyên mẫu đang thực hiện nhiệm vụ bay thử, ngoài ra có thể có 1 chiếc máy bay thử cường độ trên mặt đất và 1 chiếc máy bay kiểm tra khả năng hoạt động tối đa.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Chiếc Y-20 này đánh dấu Trung Quốc trở thành quốc gia thứ tư có thể nghiên cứu chế tạo máy bay vận tải quân dụng cỡ lớn lớp 200 tấn, sau Mỹ, Nga và Ukraine, cũng có nghĩa là Không quân Trung Quốc chính thức hướng tới “không quân chiến lược”.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Nhìn vào nhu cầu điều động lực lượng vũ trang, tập kết lực lượng và cứu nạn của Quân đội Trung Quốc, Trung Quốc sẽ có nhu cầu số lượng rất lớn đối với máy bay vận tải cỡ lớn Y-20.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Với tính toán của giới chức quân sự Bắc Kinh, chỉ riêng về vận tải đường không, nếu đầu tư một lữ đoàn bọc thép xe tăng, 2 trung đoàn xe chiến đấu nhảy dù, cộng với 1.500 binh sĩ nhảy dù cùng với xe đột kích, xe chỉ huy và máy bay trực thăng có liên quan, thì ít nhất cần khoảng 250 máy bay vận tải Y-20.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Truyền thông các nước cũng suy đoán, nhu cầu số lượng tối thiểu của Quân đội Trung Quốc đối với máy bay Y-20 là trên 300 chiếc, quy mô to lớn như vậy đủ để 2 nhà máy chế tạo máy bay sản xuất hết công suất trong 10 năm.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Tờ “Hoàn Cầu” Trung Quốc cũng có bài viết cho rằng, chu kỳ bay thử của máy bay vận tải cỡ lớn là 2 - 3 năm, do đó, lô máy bay vận tải Y-20 đầu tiên sẽ biên chế vào khoảng năm 2016. Có chuyên gia cho rằng, Trung Quốc sẽ sản xuất 6 máy bay nguyên mẫu Y-20, ngoài 1 chiếc dùng để kiểm tra cường độ, 5 chiếc khác sẽ bàn giao trước cuối năm 2014.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia quân sự cho rằng Y-20 của Trung Quốc vẫn chỉ là một sự lai tạp giữa máy bay vận tải IL-76 Nga và một phần đặc điểm của máy bay C-17 Mỹ.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Hoàn Cầu cũng cho rằng, nếu Y-20 thử nghiệm thành công, Trung Quốc sẽ phát triển thành phiên bản siêu máy bay tiếp nhiên liệu YY-20 với lượng dầu mang theo tối đa của YY-20 sẽ khoảng 110 tấn, có thể tiếp dầu cho 18 máy bay Su-30MKK (mỗi chiếc 5 tấn dầu), tức là mỗi chiếc YY-20 sẽ hỗ trợ tác chiến cho 4 biên đội máy bay Su-30MKK. Như vậy, 2 máy bay tiếp dầu YY-20 có thể hỗ trợ cho 1 trung đoàn Su-30MKK, JH-7 tác chiến ở quần đảo Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. (Trong ảnh: máy bay tiếp dầu HY-6 mà Trung Quốc đang sở hữu).
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Thậm chí, YY-20 sẽ mang đến cho không quân Trung Quốc khả năng “bay khắp thế giới, tác chiến toàn cầu” theo như nhận định của tờ Thời báo Hoàn Cầu. Điều này cũng thể hiện một tham vọng không nhỏ của Trung Quốc. (Trong ảnh: Máy bay tiếp dầu cho hai chiếc tiêm kích).
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Hiện tại, không quân Trung Quốc còn gặp khó khăn khi thiếu thốn lực lượng máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4. Mạng quân sự sina Trung Quốc ngày 16 tháng 12 có bài viết nhan đề “Máy bay chiến đấu thế hệ 4 Trung Quốc lạc hậu xa so với Âu-Mỹ, sẽ lấy J-10C bổ sung”. Bài viết cho rằng, hiện nay, trên thế giới trang bị máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư chỉ có Mỹ, Anh và Hà Lan, còn hình thành sức chiến đấu chỉ có Mỹ. (Máy bay J-10C)
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Hiện nay, hiện nay có trên thế giới có khoảng 25 nước trang bị máy bay chiến đấu phiên bản cải tiến thế hệ thứ ba, số lượng trang bị khoảng 2.050-2.190 chiếc, trong đó Mỹ chiếm khoảng 70%. Có thể thấy, máy bay chiến đấu thế hệ 4, 4+ vẫn là chủ lực của Không quân Mỹ và không quân các nước tiên tiến thế giới trong một khoảng thời gian tương lai. (Tiêm kích thế hệ 4 F-15 của Mỹ)
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
So với các nước trên thế giới, thời gian Trung Quốc nghiên cứu chế tạo máy bay chiến đấu thế hệ 4, 4+ chậm hơn nhiều, sau năm 2006 mới bắt đầu lập chương trình nghiên cứu chế tạo, một số chương trình thậm chí tới khoảng năm 2008 mới bắt đầu lập chương trình. (Máy bay thế hệ 4 Rafale của châu Âu)
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Nói chung, máy bay chiến đấu phiên bản cải tiến thế hệ 4 của Trung Quốc lạc hậu hơn các nước tiên tiến Âu-Mỹ 12-15 năm, lô máy bay chiến đấu phiên bản cải tiến thế hệ thứ tư đầu tiên lấy J-10B và J-16 làm chính sẽ bàn giao cho Quân đội Trung Quốc vào đầu năm 2014, chậm hơn Mỹ 15 năm, châu Âu 12 năm, chậm hơn các nước xung quanh 6-9 năm. (Máy bay J-16 của Trung Quốc)
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Để khắc phục điểm yếu này trong bối cảnh hiện tại, Trung Quốc đã tăng cường vào đó J-10C và J-15B, đồng thời lên kế hoạch nhập khẩu Su-35 bắt đầu từ năm 2003 cũng đã bước vào giai đoạn đàm phán thực chất. (Đồ họa khả năng tác chiến trên không của J-10C mà Trung Quốc vẽ ra).
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Máy bay chiến đấu J-10C là “phiên bản cải tiến sâu sắc” nâng cao tổng thể về điện tử hàng không trên nền tảng của máy bay chiến đấu J-10B, dựa vào tiêu chuẩn của máy bay thế hệ thứ năm J-20.
Trung Quốc muốn có "không quân chiến lược" tác chiến toàn cầu
Máy bay chiến đấu J-15B được nghiên cứu chế tạo trên nền tảng máy bay chiến đấu J-15A (loại máy bay trang bị cho tàu sân bay, đã được sản xuất hàng loạt), tính năng tác chiến tổng thể của nó “tương đương” với chủ lực của Hải quân Mỹ - máy bay chiến đấu F/A-18E/F Super Hornet.

Saturday, December 14, 2013

Siêu hạm Type 052D Trung Quốc thua xa chiến hạm Mỹ

(Kienthuc.net.vn) - Tàu khu trục tối tân nhất Trung Quốc Type 052D chỉ có sức mạnh tương đương với thế hệ đầu của khu trục lớp Arleigh Burke (Mỹ) cách đây 20 năm trước.
Gần đây, phương tiện truyền Trung Quốc đăng tải một số hình ảnh hoạt động thử nghiệm tàu khu trục mới nhất Trung Quốc Type 052D tại vùng biển Hoa Đông. Bình luận về tính năng kỹ chiến thuật của Type 052D, trang tin Strategypage cho rằng, lớp tàu này tuy đã có những nâng cấp lớn nhưng chỉ có thể tương đương lớp tàu khu trục Arleigh Burke thế hệ đầu cách đây 20 năm trước của Hải quân Mỹ.
Lớp Arleigh Burke là tàu chiến chủ lực của Hải quân Mỹ hiện nay, trang bị hệ thống chiến đấu tối tân Aegis. Bản thân tàu khu trục Arleigh Burke cũng không ngừng được cải tiến.
 Tàu khu trục tên lửa lớp Arleigh Burke.
Thế hệ đầu của lớp Arleigh Burke có lượng giãn nước 8.300 tấn, nhưng sau nhiều lần nâng cấp thì lượng giãn nước của tàu chiến mới nhất kiểu này đạt tới 10.000 tấn, vượt qua tàu tuần dương có lượng giãn nước lớn nhất trong chiến tranh thế giới thứ 2. Tốc độ cao nhất của tàu có thể đạt 50 km/h, hệ thống vũ khí mạnh mẽ gồm 90-96 quả tên lửa (phòng không, đối đất, chống ngầm) được chứa trong ống phóng thẳng đứng, pháo hải quân 127mm, pháo cao tốc 30mm, ngư lôi, tên lửa chống tàu và trực thăng.
 
Trong khi đó, Type 052D chỉ có lượng giãn nước 7.500 tấn, trang bị hệ thống phóng thẳng đứng gồm 64 ống, pháo hạm 130mm, pháo phòng không cao tốc 30mm và ngư lôi, trực thăng. Điểm hơn ở Type 052D so với tàu chiến Mỹ là trang bị tên lửa hành trình chống tàu YJ-62 mạnh hơn rất nhiều so với mẫu RGM-84 Harpoon có tầm bắn ngắn trên tàu Mỹ. Nhưng trong tương lai không xa, Mỹ sẽ thay thế RGM-84 bằng LRASM mạnh mẽ hơn rất nhiều, và khi đó Type 052D khó mà đối chọi nổi với Arleigh Burke.
 
Thực tế, trong 10 năm qua, trình độ thiết kế tàu khu trục của Trung Quốc đã được cải thiện, 2 tàu khu trục Type 052B và 2 tàu khu trục Type 052C đã lần lượt đi vào hoạt động. Không ít người coi 4 tàu chiến này là những nỗ lực theo đuổi tàu chiến lớp Arleigh Burke của Trung Quốc. 
 
 Tàu khu trục tên lửa tối tân nhất Trung Quốc, Type 052D.
Trong đó, khu trục Type 052B có lượng giãn nước là 5.900 tấn, trang bị hệ thống vũ khí hiện đại cho phép chống tàu mặt nước, săn tàu ngầm và phòng không gồm: 48 tên lửa đối không tầm trung Shtil, 16 tên lửa chống tàu mặt nước C-802 (tầm phóng 120km), hệ thống pháo và ngư lôi cùng trực thăng chống ngầm.
 
Còn Type 052C từng được xem là khu trục hạm tối tân nhất Trung Quốc trước khi có sự xuất hiện của Type 052D. Con tàu trang bị hệ thống ống phóng thẳng đứng gồm 48 ống chứa tên lửa phòng không tầm xa HQ-9 có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình chống tàu mặt nước tầm xa C-602 và hệ thống pháo, ngư lôi.
 
Đặc biệt, trong thiết kế tàu khu trục Type 052C, Type 052D Trung Quốc bắt chước cách bố trí hệ thống anten radar mạng pha chủ động đặt quanh mặt tháp chỉ huy trên tàu giống như lớp Arleigh Burke của Mỹ. Tuy giống về kiểu dáng nhưng tàu Trung Quốc khó có thể đạt tới mức hoàn hảo về mặt hệ thống điện tử, radar như tàu chiến Mỹ với hệ thống Aeigs tối tân. Nói cách khác, người Trung Quốc chỉ có thể “nhái” hình dáng còn “ruột” bên trong thì không nhể.
 
Bằng Hữu